Trên cơ sở tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Thông tư số 153/2013/TT-BTC ngày 31/10/2013 quy định thủ tục thu, nộp tiền phạt, biên lai thu tiền phạt và kinh phí từ ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt động của lực lượng xử phạt vi phạm hành chính và Thông tư số 105/2014/TT-BTC ngày 07/8/2014 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 153/2013/TT-BTC, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Thông tư thay thế Thông tư số 153/2013/TT-BTC ngày 31/10/2013 quy định thủ tục thu, nộp tiền phạt, biên lai thu tiền phạt và kinh phí từ ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt động của lực lượng xử phạt vi phạm hành chính.
Tại cuộc họp, các thành viên tham dự đã tham gia góp ý về một số vấn đề chính trong dự thảo Thông tư như: Đề nghị xem xét lại quy định “việc thu tiền phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào quyết định xử phạt vi phạm hành chính của người có thẩm quyền xử phạt” vì trong trường hợp đối tượng vi phạm được miễn, giảm hoặc cho nộp tiền phạt nhiều lần thì việc thu tiền phạt vi phạm hành chính còn phải căn cứ vào các quyết định miễn, giảm hoặc nộp tiền phạt nhiều lần; đề nghị xem xét lại quy định về việc “cá nhân, tổ chức bị xử phạt phải nộp tiền phạt theo đúng số tiền, thời hạn ghi trong quyết định xử phạt” vì theo quy định tại Điều 79 Luật Xử lý vi phạm hành chính (được sửa đổi, bổ sung năm 2020) thì trường hợp cá nhân, tổ chức đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định có thể nộp tiền phạt nhiều lần, không phải nộp tiền phạt theo đúng số tiền, thời hạn ghi trong quyết định xử phạt; đề nghị xem xét lại quy định về việc cá nhân, tổ chức vi phạm nhận quyết định xử phạt của cơ quan có thẩm quyền tại điểm b khoản 3 Điều 5 dự thảo Thông tư vì quy định này không thống nhất với quy định tại Điều 70 Luật Xử lý vi phạm hành chính (đối với trường hợp gửi qua bưu điện bằng hình thức bảo đảm, nếu sau thời hạn 10 ngày, kể từ ngày quyết định xử phạt đã được gửi qua đường bưu điện đến lần thứ ba mà bị trả lại do cá nhân, tổ chức vi phạm cố tình không nhận thì được coi là quyết định đã được giao); đề nghị quy định thống nhất “người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc nộp tiền phạt vi phạm hành chính, tiền chậm nộp (nếu có)” nhằm đảm bảo phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 73 Luật Xử lý vi phạm hành chính; đề nghị xem xét bỏ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 15 Dự thảo vì quyết định xử phạt được thực hiện theo mẫu do Chính phủ quy định nên người có thẩm quyền xử phạt không thể tự ý ghi các thông tin không có sẵn trong mẫu quyết định xử phạt.