Nghiên cứu, trao đổi: Đổi mới quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

Thứ tư - 06/10/2021 17:37 155 0
So với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 thì Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã đổi mới cơ bản quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có quy trình ban hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

Theo quy định tại Chương III (từ Điều 21 đến Điều 29) Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 thì việc ban hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được ban hành theo quy trình: Lập, xây dựng Chương trình ban hành Nghị quyết hàng năm, trên cơ sở phân công của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh cơ quan có thẩm quyền tiến hành soạn thảo Nghị quyết, tổ chức lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức hữu quan, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của Nghị quyết, tiến hành thẩm định, thẩm tra Nghị quyết và xem xét, thảo luận, thông qua Nghị quyết tại kỳ họp Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, theo quy định tại Chương VIII (từ Điều 111 đến Điều 126) của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã có quy định khác nhau về quy trình ban hành Nghị quyết. Trong đó, Luật quy định bổ sung quy trình đề nghị xây dựng Nghị quyết theo hướng tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Tinh thần chủ đạo của việc đổi mới này là tập trung quy định về quy trình xây dựng chính sách theo hướng chính sách phải được thông qua, phê duyệt trước khi bắt đầu soạn thảo văn bản; sửa đổi một số quy định trong quy trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, xem xét, thông qua văn bản quy phạm pháp luật và đổi mới quy trình xây dựng, ban hành văn bản pháp luật của một số chủ thể khác. Cụ thể như sau:

          Thứ nhất,cơ quan đề nghị xây dựng Nghị quyết phải tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến đề nghị xây dựng Nghị quyết; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan; tổ chức nghiên cứu thông tin, tư liệu, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có liên quan đến đề nghị xây dựng Nghị quyết;xây dựng nội dung của chính sách trong đề nghị xây dựng Nghị quyết; đánh giá tác động của chính sách;dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc thi hành Nghị quyết sau khi được Hội đồng nhân dân thông qua; tổ chức lấy ý kiến;đăng tải đầy đủ hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị quyết trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong thời hạn ít nhất 30 ngày để lấy ý kiến cơ quan, tổ chức có liên quan và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của các chính sách (Điều 111 đến Điều 114).

          Thứ hai,Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính, Sở Nội vụ và các cơ quan, tổ chức có liên quan thẩm định đề nghị xây dựng Nghị quyết. Thời hạn thẩm định đề nghị xây dựng Nghị quyết là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ. Báo cáo thẩm định phải thể hiện rõ ý kiến của Sở Tư pháp về nội dung thẩm định và về đề nghị xây dựng nghị quyết đủ điều kiện hoặc chưa đủ điều kiện trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định. Báo cáo thẩm định phải được gửi đến cơ quan lập đề nghị xây dựng Nghị quyết chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày kết thúc thẩm định. Cơ quan lập đề nghị xây dựng Nghị quyết có trách nhiệm giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm định để chỉnh lý đề nghị xây dựng Nghị quyết và đồng thời gửi báo cáo giải trình, tiếp thu kèm theo đề nghị xây dựng Nghị quyết đã được chỉnh lý đến Sở Tư pháp khi trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh dự thảo nghị quyết(Điều 115).

Thứ ba,cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đề nghị xây dựng trình Thường trực Hội đồng nhân dân hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị quyết. Thường trực Hội đồng nhân dân xem xét đề nghị xây dựng nghị quyết; nếu chấp thuận thìphân công cơ quan trình dự thảo nghị quyết và quyết địnhthời hạn trình Hội đồng nhân dân dự thảo nghị quyết; cơ quan trình có trách nhiệm phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan phối hợp soạn thảo (Điều 116, Điều 117).

Như vậy, theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì không nhất thiết phải lập, xây dựng Chương trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật hàng năm mà việc ban hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phải được quyết định trên cơ sở đề nghị trực tiếp, cụ thể của các chủ thể. Đồng thời, Sở Tư pháp phải tiến hành thẩm định 2 công đoạn là thẩm định tính pháp lý của đề nghị xây dựng Nghị quyết và tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, khả thi của nội dung Nghị quyết. Việc đổi mới quy trình này nhằm tạo ra tính chủ động trong việc ban hành chính sách của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, khắc phục tình trạng nhiều chính sách đã được lập, xây dựng trong Chương trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày từ đầu năm nhưng không được ban hành vì nhiều lý do khác nhau như thực tế đã phát sinh trong quá trình thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004./.

Tác giả bài viết: Lê Kim Chinh

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây